Sau khi lấy thành Quy Nhơn, Tây Sơn Vương đánh mạnh về phương nam
và tiến lên phía bắc dẹp yên các tập đoàn phong kiến thối nát đương thời, đánh
tan nhiều vạn quân xâm lược Xiêm phía nam, quân nhà Thanh phía bắc; Nguyễn Nhạc
đóng đô ở thành Quy Nhơn (thành Hoàng Đế), xưng hiệu vua Thái Đức, Nguyễn Huệ -
vua Quang Trung ở Phú Xuân (Thừa Thiên-Huế), còn Nguyễn Lữ giữ đất Gia Định. Đất
nước tạm yên nạn xâu xé tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn phong kiến, nạn
quan lại hà hiếp nhân dân. Nhà Nguyễn - Tây Sơn lo việc nội trị, ngoại giao,
bình yên xã tắc. Song, sự yên ổn này không lâu khi nội bộ nhà Tây Sơn lục đục,
đặc biệt từ khi vua Quang Trung băng hà (ngày 29-7 năm Nhâm Tý-1792), Nguyễn
Quang Toản nối ngôi mới 15 tuổi hiệu Cảnh Thịnh, vua Thái Đức ở Quy Nhơn tuổi về
già trở nên an phận; Nguyễn Lữ ở Gia Định không đủ sức giữ đất. Lại thêm một số
nịnh thần tranh quyền lợi cá nhân, hãm hại người tài đức, khiến cho nhà Tây Sơn
không còn thống nhất, đoàn kết như lúc khởi nghĩa. Còn Nguyễn Ánh, tức Nguyễn
Phúc Ánh, mặc dù bị nhà Tây Sơn dồn đến đường cùng nhưng chưa mất hẳn, Phúc Ánh
liên hệ cầu viện với Pháp, được Pháp trợ giúp dần dần khôi phục thế lực và đánh
lại Tây Sơn. Khi nghe tin Quang Trung mất, Nguyễn Phúc Ánh cả mừng.
Quy Nhơn và các cuộc chiến Tây Sơn. Ảnh: Ha Nguyen |
Năm 1788, Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm
được Sài Côn (Sài Gòn) và được Pháp giúp đỡ tàu đồng đã đánh ra các tỉnh Nam
Trung Bộ và năm 1792 đem chiến thuyền đánh Quy Nhơn, mở đầu cho các trận đánh lớn
giữa hai nhà Nguyễn trên đất Quy Nhơn - nơi Tây Sơn chiếm thành đầu tiên của
nhà Nguyễn. Quân nhà Nguyễn kéo vào cửa biển Thị Nại (cửa biển Quy Nhơn). Đây
là cửa biển có nhiều lợi thế phòng thủ quân sự, phía đông có dãy núi Phương
Mai, phía tây có núi Nhạn Châu (Gành Ráng) làm cánh che. Từ thời Chiêm Thành đến
Tây Sơn, cửa Thị Nại luôn có đồn quân phòng ngự. Vua Thái Đức cho xây pháo đài ở
hai dãy núi, đặt đại bác để bắn xuống khi bị tấn công. Quân nhà Nguyễn dùng hỏa
công đánh bất ngờ, đốt phá thủy trại Tây Sơn làm cho quân Tây Sơn không chống cự
nổi phải bỏ cửa Thị Nại chạy vào Quy Nhơn. Quân Nguyễn đổ bộ, nhưng liền bị
quân Tây Sơn vây đánh mạnh phải rút lui. Sau đó không lâu, khi chiếm được thành
Diên Khánh, thừa thắng Nguyễn Phúc Ánh tiến ra Phú Yên và đem đại binh kéo vào
cửa Thị Nại, đánh lên thành Quy Nhơn. Liệu thế chống cự không nổi, vua Thái Đức
sai sứ ra Phú Xuân cầu viện. Vua Cảnh Thịnh sai Thái Úy Phạm Công Hưng cùng
Nguyễn Văn Huấn, Lê Trung và Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi đi đường
bộ; Đặng Văn Chân đem 30 chiến thuyền đi đường biển, cả hai đạo quân vào ứng cứu
Quy Nhơn. Quân Nguyễn thấy viện binh Tây Sơn hùng hậu không thể chống cự nổi,
liền rút đại binh về Diên Khánh.
Tháng ba năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn
Phúc Ánh lại cử đại binh ra đánh Quy Nhơn. Sau khi vào cửa Thị Nại quân Nguyễn
do Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức chỉ huy kéo lên đóng ở núi Hàm Long (Tuy Phước),
một cánh do Tống Viết Phước chỉ huy kéo ra đóng ở núi Cung Quăng thuộc Bồng
Sơn. Đây là hai vị trí quan trọng có thể bao vây thành Quy Nhơn. Lúc này tướng
của Tây Sơn là Võ Đình Tú đang ở Phú Yên nghe tin quân nhà Nguyễn đổ bộ Quy
Nhơn vội kéo quân về đi thẳng lên Cầu Úc đánh quân Võ Tánh. Hai bên kịch chiến
suốt hai ngày đêm, Võ Tánh trá bại rút quân chạy, Tú đuổi theo nhưng không ngờ
trên núi có phục binh, tên bắn xuống như mưa quân của Võ Đình Tú lớp chết, lớp
bỏ chạy. Tú tả xung hữu đột, cây thiết côn gạt phăng bao nhiêu mũi tên bắn vun
vút vào người, nhưng cuối cùng không tránh khỏi đạn đồng, Tú bị thương nặng,
máu chảy dầm mình đuối sức ngã gục trên lưng ngựa. Con ngựa hí một tiếng dài nhảy
ra khỏi trận chiến chạy một mạch về Phú Phong. Khi đến nhà con ngựa lăn ra chết
và Võ Đình Tú cũng tắt thở. Trong lúc này ở Hàm Long, quân của Võ Tánh và Nguyễn
Huỳnh Đức cũng kéo đánh đồn Trấp Xá ở Quán Chẹt. Tướng giữ đồn là Trương Tấn Túy
chống cự không nổi, bỏ đồn chạy về Quy Nhơn. Quân Nguyễn tiến đánh tiếp đồn
tháp Tri Thiện (tháp Bánh Ít), tướng giữ đồn là Lê Văn Thiệt bị trúng đạn chết.
Quân Võ Tánh thừa thắng kéo ra Ngạc Đầm (Bàu Sấu) ở huyện An Nhơn. Bàu Sấu
không rộng lắm nhưng khá sâu, bên mé bàu phía đông có dãy núi đất chạy dài ra
phía bắc, trên núi có các đồn lính Tây Sơn đóng để giữ mặt sau thành Quy Nhơn.
Các đồn này được xây dựng kiên cố, nên quân của Võ Tánh tấn công mấy ngày liền
mà không vượt qua được. Còn Nguyễn Phúc Ánh cũng chưa hạ được thành Quy Nhơn,
đành bao vây thành truyền các tướng đề phòng quân Tây Sơn từ Phú Xuân kéo vào
chi viện. Quả thực như tiên đoán của Nguyễn Phúc Ánh, nhưng cánh quân Tây Sơn
do Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng chỉ huy kéo vào tới Quảng Ngãi thì bị quân
Nguyễn chặn đánh không thể nào tiến kịp vào Quy Nhơn. Tướng giữ thành Quy Nhơn
là Lê Văn Thanh đợi mãi không thấy viện binh mà trong thành lương thực đã cạn
đành phải mở cửa thành đầu hàng. Quân nhà Nguyễn vào thành giết hết các tướng
tá Tây Sơn. Lúc mất thành Quy Nhơn, tướng của Tây Sơn Nguyễn Quang Huy đang ở
Phú Yên nhận định: nếu quân Nguyễn từ Diên Khánh đánh ra, Quy Nhơn đánh vào thì
Phú Yên không chịu nổi. Vì vậy, Huy gấp rút bỏ Phú Yên và kéo binh ra ứng cứu
Quy Nhơn. Quân của Huy vượt qua nhiều cánh quân nhà Nguyễn kéo thẳng đến chân
thành Quy Nhơn. Nguyễn Phúc Ánh lấy làm lạ vì một tướng của Tây Sơn chỉ trong một
ngày đánh bại hàng chục tướng của mình bèn lên thành quan sát, không ngờ Quang
Huy trông thấy dùng cung lớn bắn trọng thương. Tuy vậy, quân của Huy bị quân
Nguyễn vây đánh tứ phương, Huy không cự nổi bèn chạy thẳng vào núi Dương An,
chiêu mộ thêm hào kiệt chờ dịp phục thù. Sau khi chiếm thành Quy Nhơn, Nguyễn
Phúc Ánh giao thành lại cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn giữ, còn mình kéo
quân vào Gia Định.
Tin Quy Nhơn thất thủ, tháng giêng
năm Canh Thân (1800) vua Cảnh Thịnh phái Trần Quang Diệu vào Quảng Nam hợp cùng
Võ Văn Dũng để vào Quy Nhơn. Qua nhiều trận kịch chiến với quân nhà Nguyễn, cuối
cùng Trần Quang Diệu cũng vào tới thành Quy Nhơn. Võ Tánh đem quân ra đánh,
nhưng không lại, Tánh kéo quân vào thành cố thủ. Trần Quang Diệu cho quân vây
thành và công kích, một mặt phân công cho Võ Văn Dũng cầm thủy binh giữ cửa biển
Thị Nại. Mặc dù quân Nguyễn ở trên thành Quy Nhơn dùng tên, đạn bắn xuống, quân
Tây Sơn không đến gần được chân thành, nhưng Trần Quang Diệu cho đắp tường lũy
xung quanh thành vây khốn. Còn Võ Văn Dũng tổ chức thủy quân và canh phòng cửa
Thị Nại, bố trí đại bác ở hai pháo đài Gành Ráng và Phương Mai. Nguyễn Phúc Ánh
nghe tin Quy Nhơn bị vây khốn, cử đại binh ra cứu viện. Nguyễn Phúc Ánh trực tiếp
chỉ huy thủy binh, đưa chiến thuyền đến đóng ở Cù Lao Xanh (ngoài cửa biển Thị
Nại), còn bộ binh do các tướng Nguyễn Văn Thành, Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương
Tấn Bửu theo đường Phú Yên kéo ra đóng ở núi Thị Dã (Tuy Phước). Quân Tây Sơn
do Trần Quang Diệu chỉ huy đã chia cắt quân bộ và quân thủy của nhà Nguyễn,
không cho liên lạc với nhau, làm cho quân Nguyễn không tiến được, phải án binh
bất động và sau đó rút thủy quân về Gia Định chờ năm sau (1801) kéo đại binh trở
ra quyết đánh một trận sống mái cùng quân Tây Sơn.
Theo kế hoạch quân nhà Nguyễn tiến
công theo thế giọng kềm: một đạo quân đi từ hướng Phú Yên từ núi An Dương, nguồn
An Tượng đánh ra, thủy binh đem thuyền nhỏ vượt ra bắc Thị Nại lẻn vào cửa Cách
Thử để vào Thị Nại dùng hỏa công đốt thủy trại Tây Sơn, tạo điều kiện cho đạo
thủy binh chính đánh úp Thị Nại. Thế trận đã chuẩn bị kỹ, Nguyễn Phúc Ánh tin
quân Tây Sơn sẽ đại bại, thế nhưng khi đạo quân bộ vừa qua khỏi đất Phú Yên ra
vùng An Dương, An Tượng đã bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Quang Huy dùng quân (chủ
yếu là người thiểu số) mai phục đánh úp. Vốn quen địa hình rừng núi, các cánh
quân người thiểu số của Huy đã vây đánh quân nhà Nguyễn một trận tơi bời. Đạo
quân bộ đã thất bại, đạo quân thủy nhà Nguyễn cũng kịch chiến một trận
"thư hùng" với thủy quân Tây Sơn tại cửa Thị Nại. Khi cánh quân bọc hậu
của nhà Nguyễn lẻn qua cửa Cách Thử đốt thủy trại Tây Sơn, đạo thủy quân chính
do Võ Duy Nguy chỉ huy liền tiến đánh cửa Thị Nại. Súng của quân Tây Sơn trên
hai pháo đài Gành Ráng và Phương Mai bắn xuống dữ dội, toàn bộ đoàn chiến thuyền
tiên phong của nhà Nguyễn bị chìm gần hết, Võ Duy Nguy bị trúng đạn chết. Lê
Văn Duyệt đốc binh tiếp theo liều chết vượt qua tầm đạn, dùng hỏa công đánh mạnh
vào đội thuyền Tây Sơn. Gió thổi mạnh lửa cất cao sáng rực cả một góc biển. Kết
quả, quân nhà Nguyễn bị chết vô số, thuyền chiến Tây Sơn cũng không còn chiếc
nào. Võ Văn Dũng thu quân, bỏ cửa Thị Nại kéo lên thành Quy Nhơn hợp cùng quân
Trần Quang Diệu đóng giữ những nơi hiểm yếu. Chiếm được cửa biển Thị Nại, nhưng
quân Nguyễn không đủ sức giải cứu thành Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh bèn để Nguyễn
Văn Thành giữ cửa Thị Nại, sai các tướng lĩnh khác kéo quân lên đèo Cù Mông chống
với Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, còn mình kéo đại quân ra đánh Phú Xuân, vì
lúc này Phú Xuân đang bỏ ngỏ.
Tuy nhiên, do không đủ lực quân nhà
Nguyễn bị Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy phối hợp đánh tan.
Thành Quy Nhơn vẫn trong vòng vây khốn, Trần Quang Diệu đốc thúc ba quân công
thành kịch liệt, buộc tướng giữ thành là Võ Tánh phải tự thiêu và Ngô Tùng Châu
uống thuốc độc tự vẫn. Tướng mất, cửa thành mở, quân Tây Sơn vào chiếm thành.
Trần Quang Diệu ban lời khuyến dụ binh sĩ rồi chôn cất tử tế hai vị trung thần
của nhà Nguyễn. Quang cảnh thành Quy Nhơn lúc bây giờ thật bi hùng, đó là ngày
27 tháng 5 năm Tân Dậu (1801).
Đầu năm 1802, sau khi lấy được Phú
Xuân quân nhà Nguyễn do Lê Văn Duyệt và Lê Chất kéo vào Quy Nhơn, các tướng Tây
Sơn: Võ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Văn Lộc đã chỉ huy quân Tây Sơn với
8.000 quân mai phục các vị trí trọng yếu trên núi Kỳ Sơn (phía đông nam thành
Quy Nhơn) đánh một trận lớn đại phá 3 vạn quân của nhà Nguyễn. Đây là trận đánh
cuối cùng của nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn trên đất Quy Nhơn trước khi Trần Quang
Diệu bỏ thành Quy Nhơn, để cùng với Võ Văn Dũng đem 3.000 quân, 800 thớt voi
theo đường thượng đạo sang Lào ra Nghệ An vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất
(1802).
Hữu Vinh/ MaxReading
Bài viết rất bổ ích!
ReplyDelete“Ai về Bình Định mà coi/Con gái Bình Định bỏ roi, đi quyền” Tour Quy Nhơn
ReplyDelete