Nhà Tây Sơn với Hoàng Đế Quang Trung-Nguyễn Huệ tuy chỉ tồn tại
trên 30 năm (khởi nghĩa năm 1771, kết thúc năm1802), nhưng là một hiện tượng độc
đáo trong lịch sử Việt Nam. Từ một cuộc khởi nghĩa nông dân cục bộ, đã mở rộng
phong trào đánh Nam, dẹp Bắc, chinh phạt các tập đoàn phong kiến thối nát đương
thời, đánh tan tành nhiều vạn quân Xiêm xâm lược phía Nam và trên 29 vạn quân
nhà Thanh tràn qua phía Bắc. Trong quá trình dựng nghiệp, nhà Tây Sơn được nhiều
anh hùng nghĩa sĩ đến giúp, đó là những người tài giỏi, nhưng xuất thân từ nhiều
điều kiện khác nhau và họ đến dưới cờ Tây Sơn vì nghĩa lớn. Bên võ có thể kể đến:
Võ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Tuyết, Võ Đình Tú, Nguyễn
Văn Lộc, Lê Văn Hưng...Bên văn có Nguyễn Thung, Võ Xuân Hoài, Trương Mỹ Ngọc,
Cao Tắc Tựu, La Xuân Kiều, Triệu Đình Tiệp...Theo sách sử truyền tụng, đây là
"thất hổ tướng và lục kỳ sĩ" của nhà Tây Sơn.
Trước khi nói đến "thất hổ tướng",
cũng nên đề cập một nhân vật có công lớn nhất bày mưu tính kế để ba anh em nhà
Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa là thầy giáo Hiến ở An Thái (An Nhơn). Tên thật của
ông là Trương Văn Hiến, giỏi cả văn và võ. Ông mở trường dạy học ở An Thái và
thâu nhận học trò trong vùng, trong đó có Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.
Những người học trò của ông buộc phải học cả hai môn văn và võ. Vốn là một nhân
tài chán cảnh thối nát của các tập đoàn phong kiến, dân tình bị quan lại hà hiếp
khốn cùng...mà đi ẩn cư dạy học, nên Giáo Hiến luôn đặt niềm hy vọng sẽ có người
ra giúp nước từ đám học trò của mình. Và ông đã chọn ba anh em nhà Tây Sơn.
Chuyện kể rằng: một hôm Nguyễn Nhạc mua được thanh cổ kiếm đem đến dâng cho thầy
học, Giáo hiến xem xét thanh kiếm và bảo: "lúc này là lúc kẻ anh hùng dựng
nên nghiệp cả, trò không nên để lỡ thời cơ". Lời gợi ý đó của thầy đã nhen
nhóm trong Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ mưu đồ khởi nghĩa. Và từ đó thầy giáo Hiến
đã trở thành quân sư, hướng dẫn đường đi, nước bước cho ba anh em nhà Tây Sơn
thu phục nhân tài, lòng dân, xây dựng quân lương, chuẩn bị các điều kiện để khởi
nghĩa.
Danh tướng thời Tây Sơn, ảnh chụp tại bảo tàng Quang Trung, Bình Định |
Có quân sư giỏi là thầy dạy học của
mình, anh em nhà Tây Sơn lại được nhiều anh hùng hào kiệt đến xin phò tá. Trong
số này, không ít bậc kỳ tài, học sâu hiểu rộng, võ nghệ phi thường, mỗi người đều
có môn sở trường, nhưng gặp buổi nhiễu nhương, họ ẩn thân chờ thời, có người là
tướng cướp trấn giữ một vùng...Trong sách vở và dân gian còn lưu truyền nhiều
giai thoại về những con người tài giỏi này.
Võ Văn Dũng, người thôn Phú Phong, gần
ấp Tây Sơn là con một nhà giàu, năm 20 tuổi theo người buôn ngựa vào Phú Yên,
duyên may gặp lão trượng họ Lương dạy cho môn trường kiếm và đoản đao. Về nhà
Dũng bí mật một mình luyện tập năm năm mới thành thục. Dũng dấu kín nghề riêng,
khách võ lâm không mấy ai biết rằng Dũng thuộc hàng cao thủ. Võ Văn Dũng là một
trong những anh tài hợp tác sớm với nhà Tây Sơn.
Nữ tướng Bùi Thị Xuân, nhà ở thôn Xuân Hòa, phía đông thôn Phú Phong. Năm
12 tuổi gia đình cho học chữ, nhưng tính tình cứng cỏi, Xuân thích học võ hơn học
văn. Tương truyền rằng đêm đêm có một bà lão già đến truyền thụ võ công cho Bùi
Thị Xuân. Đêm nào cũng vậy, cứ đến gần sáng là bà già lui gót. Ba năm sau võ
công của Xuân đã vào hàng điêu luyện. Một hôm bà lão nắm tay Xuân bảo: "ta
có duyên cùng con chỉ bấy nhiêu, đêm nay ta đến từ biệt con". Bùi Thị Xuân
nài nỉ bà lão cho biết tánh danh, quê quán, bà lão chỉ đáp: "ta ở gần đây,
trong ba hôm nữa con sẽ biết tin tức". Bà lão nói xong vụt biến mất. Ba
hôm sau ở thôn An Vinh gần đó có đám ma của một bà lão. Có lần Xuân lên chợ Phú
Phong thấy hai thớt voi to, người xem đông đúc, Xuân xin được cỡi thử. Không ngờ
voi co chân trước cho Bùi Thị Xuân leo lên lưng và cảm thấy điều khiển voi còn
dễ hơn cỡi ngựa. Một hôm, Bùi Thị Xuân cùng vài cô học trò nữ đi săn ở vùng núi
Thuận Ninh, xảy gặp một tráng sĩ đang đánh cùng mãnh hổ. Thấy tráng sĩ mình mẩy
thương tích, sức sắp đuối mà hổ hung hăng chụp vồ, Xuân hét lên một tiếng rút
song kiếm nhảy vào cứu tráng sĩ. Đánh nhau với hổ hồi lâu, Xuân lừa thế đâm một
nhát kiếm nơi vai hổ, con hổ gầm lên một tiếng rồi bỏ chạy. Bùi Thị Xuân băn bó
vết thương cho tráng sĩ và hỏi ra mới biết, đó là Trần Quang Diệu. Sau này, hai
người nên duyên chồng vợ từ lần gặp gỡ đầu tiên ấy.
Trần Quang Diệu quê quán ở Ân Tín,
huyện Hoài Ân. Nhà giàu nhưng mồ côi sớm, thân tự lập. Lúc nhỏ Diệu học văn, học
võ nhiều thầy. Một lần đi săn trên dãy Kim Sơn, tình cờ thấy một ông lão nằm giỡn
với một con cọp tàu cau to lớn. Thấy Diệu cọp nhảy ra vồ, nhưng ông lão gọi cọp
lại, đoạn hỏi thăm Diệu quê quán, gia cảnh, sau đó thâu nhận làm học trò. Lão
nhân này là ai? Đó là một người ở huyện Bình Khê, họ Diệp, giỏi võ nghệ, lúc
tráng niên đã xuống tay giết chết tên tri huyện tham ô. Bị truy nã, ông đem
theo vợ con ra núi Kim Sơn lánh nạn. Không chịu nổi sơn lam chướng khí vợ con
ông lần lượt qua đời hết, chỉ còn lại một mình ông sống với hùm beo. Gặp được
Trần Quang Diệu, ông lão đã đem hết võ công của mình để truyền lại, từ quyền
thuật đến côn, kiếm, thương, đao... nhưng Diệu chỉ chuyên tâm môn đại đao. Thấm
thoát thời gian, thầy đã gần trăm tuổi, trò sức trẻ võ nghệ đã tinh thông. Một
hôm, ông lão gọi Diệu lại bảo: "Bấy lâu thầy phải sống, vì đao pháp của thầy
chưa có người kế tập, nay đã truyền thụ cho con rồi, thầy chết không luyến tiếc.
Chỉ có điều sau khi chôn cất thầy xong, con nên mau xuống núi, đem sở học làm sở
hành để khỏi phí cuộc đời anh tuấn..." Nói xong ông lão lấy tay đánh nhẹ
lên đỉnh đầu và tắt nghỉ. Theo lời thầy dặn, Trần Quang Diệu xuống núi và tìm đến
ra mắt Nguyễn Nhạc.
Cũng như Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn
Tuyết - người Nhơn Ân, huyện An Nhơn lại có duyên may gặp người tài để được
truyền thụ võ nghệ bằng cách khác. Tuyết vốn là người có sức lực, lúc trai trẻ
thường tụ tập kẻ vô lại ở chợ Gò Chàm chuyên trấn lột các gánh mãi võ đến chợ,
được đàn em tôn làm đầu nậu. Một hôm, có một ông già tóc râu bạc trắng cùng hai
cô gái mặt mày xinh đẹp đến chợ mãi võ. Ông không theo lệ cũ nộp tiền cho nhóm
của Tuyết rồi mới được hành nghề. Nghe tin ông già qua mặt, Tuyết đùng đùng nổi
giận kéo mười tên thuộc hạ đến vấn tội ông già. Tuyết hỏi, ông già không thèm
trả lời, đánh ông không thèm đỡ, cứ đứng trơ trơ như pho tượng đá. Tuyết thất
kinh bỏ về, nhưng hậm hực tìm cách trả thù. Biết ông già và cô gái trọ nơi miếu
thổ địa sau chợ, nửa đêm Tuyết mang kiếm lẻn vào. Hai cô gái ngủ say, còn ông
già ngáy như sấm, Tuyết rút kiếm đâm vào cổ ông già, kiếm gãy kêu "rắc".
Tuyết hết hồn bỏ chạy, nhưng bị ông già níu lại, Tuyết run sợ quỳ xuống xin chịu
tội. Ông già bảo: "nhà ngươi tư chất thông minh, lại có sức mạnh xuất
chúng, sao không lo rèn võ luyện văn, chờ cơ hội ra giúp nước, mà lại đắm chìm
trong vũng bùn nhơ...?" Tuyết lạy thề quyết tâm cải hối và van xin ông già
được theo làm môn đồ. Ông già đó là Trần Kim Hùng, một võ sư võ nghệ tuyệt luân
người thôn Trường Định, huyện Tuy Viễn. Tuyết theo Trần lão năm năm sau mới trở
về, bọn đồ đảng cũ đến mừng, Tuyết khuyên nên bỏ nghề cướp bóc. Đang lúc ôm mộng
giúp đời, khi nghe Tây Sơn Vương chiêu mộ hào kiệt, Tuyết liền tìm lên sơn trại
đầu quân.
Nguyễn Văn Lộc cũng là một tướng tài
của Nguyễn Huệ. Lúc nhỏ Lộc nhà nghèo đi ở chăn trâu thuê cho một phú nông ở
làng Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, học võ lúc nào và học ai không ai biết. Một hôm Lộc
đi chơi về khuya, bị quân canh bắt trói vào cột đình làng, Lộc cắt dây trói trốn
thoát, quân canh hơn mươi người đuổi theo đều bị Lộc đánh ngã. Trời tối, Lộc chạy
ngang cánh đồng lúa chín, người giữ ruộng ngờ kẻ trộm hô hoán, dân làng mang gậy
gộc chạy ra vây bắt. Lộc chỉ dùng quyền đánh ngã hết lớp này đến lớp khác,
nhưng không thể thoát vây, Lộc bèn giựt một cây gậy đánh những đòn chí tử để
thoát thân. Từ ấy, người địa phương mới biết Nguyễn Văn Lộc võ nghệ siêu phàm.
Khi Lộc đến đầu quân Tây Sơn Vương được đón nhận trọng thị. Võ Đình Tú trước
khi đến với Tây Sơn Vương là con một gia đình giàu ở Phú Phong, tính tình hào
phóng và duyên may được một nhà sư dạy võ nghệ, binh pháp. Nhà sư này không biết
từ đâu đến, thường ngồi trước ngõ nhà họ Võ, Võ Đình Tú thường mang cơm nước
chăm sóc. Chuyện kể rằng có một hôm trời nổ mưa to gió lớn, khi tan mưa trong
nhà không ai thấy Tú đâu cả. Mọi người ngờ rằng Tú bị nhà sư đưa đi. Mười năm
sau Tú trở về, lúc này đã là một thanh niên vạm vỡ, nhưng tính tình chất phác.
Khi được Võ Văn Dũng (bạn thân) giới thiệu cùng Tây Sơn Vương, Tú mới trổ tài,
côn quyền xuất chúng, binh pháp tinh thông, cỡi ngựa, bắn cung nhuần nhuyễn. Tú
thường sử dụng thiết côn, trăm người không địch nổi.
Từ một tay cướp nổi tiếng trở thành
tướng tài nhà Tây Sơn, đó là Lê Văn Hưng. Hưng người Kiên Dõng huyện Tuy Viễn,
có ngọn roi tuyệt diệu, một đòn đánh ngã trăm người. Dưới tay Hưng có vài chục
thủ hạ hành nghề ăn cướp. Nhưng cũng như Chàng Lía, đảng cướp của Hưng chỉ cướp
của nhà giàu. Thường mỗi vụ cướp Hưng cầm roi cản hậu, khi phải đánh người thì
đánh ngã để thoát thân mà thôi. Nhưng có một lần, Hưng vào cướp một nhà giàu ở
Phú Yên, chủ nhà cũng là một tay giỏi võ nghệ cùng với trai tráng trong nhà vây
đánh. Hưng nhiều lần nương tay, nhưng đối phương cứ vây chặt, trong khi trời sắp
sáng, buộc Hưng phải ra đòn tận lực, khổ chủ bị đánh hộc máu chết tươi. Các vụ
cướng suông quan lại chẳng để ý, nhưng sau vụ cướp này, Hưng bị chính quyền vây
ráp, phải bỏ nhà lánh vào rừng và gia nhập nghĩa quân Tây Sơn, rồi từ cấp lính
lên đến cấp tướng.
Không nằm trong thất hổ tướng, nhưng
trong những người theo phò giúp Tây Sơn Vương có những nhân vật đáng chú ý, đó
là các tướng Lý Văn Bưu, Phan Văn Lâm... Lý Văn Bưu, người làng Đại Khoan, huyện
Phù Cát. Từ lúc nhỏ Bưu đã có tài cỡi ngựa múa đao, bắn cung bách phát bách
trúng, người trong vùng còn gọi là Phi Vân Báo (con beo bay). Nhà gần rừng núi,
gia đình ông chuyên nuôi ngựa và săn bắn, bản thân Bưu siêng năng luyện tập võ
nghệ, nghiên cứu chiến trận. Nhờ quen biết bà Bùi Thị Xuân, nên khi Tây Sơn khởi
nghĩa Lý Văn Bưu được bà Xuân giới thiệu với Nguyễn Huệ, ông được thu nhận vào
chăm sóc đoàn chiến mã và rèn luyện nghĩa binh. Nhờ tài thao lược, sau đó ông
được phong tới chức Đô Đốc. Còn Phan Văn Lâm võ nghệ cao cường thiên hạ vô địch,
người miền ngoài lưu lạc đến đất An Thái và vào bái kiến thầy giáo Hiến xin được
làm đệ tử, đồng môn với ba anh em nhà Tây Sơn. Tuy được Tây Sơn Vương trọng vọng
mời vào ngay trong cung, nhưng Lâm chỉ xin được ở bên ngoài. Có lần theo yêu cầu
của tướng sĩ được xem tài nghệ, Lâm bảo mọi người rinh ba tảng đá dày chồng lên
nhau, rồi đưa sống bàn tay phải chém xuống. Ba tảng đá vỡ làm đôi, ai nấy đều
thán phục.
Trên đây, chỉ là vài ba câu chuyện của
các tướng lĩnh nhà Tây Sơn được ghi lại, truyền tụng. Điều đáng suy nghĩ là hầu
hết họ đều xuất thân không phải từ tầng lớp quan lại "cha truyền con nối",
mà dưới cờ Tây Sơn họ được tập hợp, được rèn luyện và nhờ nghệ thuật dùng người
của Quang Trung - Nguyễn Huệ đã trở thành những vị tướng tài đánh nam, dẹp bắc,
uy danh vang lừng lưu danh sử sách. Từ đó cũng cho thấy, Bình Định là mảnh đất
địa linh nhân kiệt, lắm người tài trong thiên hạ.
Hữu
Vinh/MaxReading
No comments:
Post a Comment